Nhờ ai đó trong những người đeo bám lủng lẳng ở cửa lên xuống kéo thốc cái thân thể mũm mĩm của Miu quẳng lên tàu, cô bé mới lọt vào được trong toa tàu chợ "dành cho phụ nữ và trẻ em" này. Nhìn trong đám người lố nhố hỗn độn xung quanh không thấy mẹ đâu, Miu hoảng hốt gọi to: "Mẹ, mẹ ơi!". Không có tiếng thưa. Nghe tiếng tàu kéo còi, cô biết nó sắp rời ga, cô gọi lạc giọng, tiếng méo hẳn đi "Mẹ! Mẹ ơi! Mẹ!". "Ơi, mẹ đây con!". Cô bé nháy thật nhanh chỗ mi mắt gặt nước mắt lan xuống, nhìn về phía nơi có tiếng mẹ. Mẹ cô đang chui 1/2 thân qua cửa sổ toa tàu, đang được những cánh tay kéo vài. Cô bé cuống cuồng trèo hối hả lên những bao gạo chất cao hơn đầu người cô, nhào về ôm lấy cổ mẹ, òa khóc.
Chao ôi là cái tuổi bám gấu váy mẹ. Đi đến một chốn xa lạ nào, hởi hơi mẹ ra là sợ lạc, sợ mất, giống như mẹ là một bà tiên bất mãn ở trần thế, hễ buông tay ra khỏi gấu áo là mẹ bay vụt lên trời. Sợ mẹ bỏ trốn khỏi mình, đi xin đứa bé khác về nuôi vì mình hư quá giống như lời mẹ vẫn doạ vào một cái ngày mình khóc nhè, ngang lẫy. Đâu có biết mẹ yêu mình biết bao, lạc mình mẹ hoảng loạn biết bao nhiêu.
Khi con tàu đã chạy lắc lư, hai bao đỗ đã yên tâm để hai mẹ con ngồi đè lên, cô bé mới hết khóc tủi. Cô thủ thỉ:
- Khi nãy con tưởng lạc mẹ rồi! Con sợ tàu bỏ mẹ lại. Con sợ quá mẹ ạ. Con muốn nhảy xuống ga mà không được.
Người mẹ vuốt ngược mái tóc ướt đẫm mồ hôi của con gái trong khi ngoài trời đang là đêm đông lạnh giá, lựa thế phẩy phẩy cái nón mà không đụng đến hành khách khác. Bà nói với con gái, giọng vỗ về:
- Lạc răng (sao) được, con. Con ở mô mẹ ở đó mà.
- Sao lúc nãy mẹ đi đâu mà không lên cùng với con?
- Mẹ phải đưa được hai bao hàng lên trước đã chứ.
Miu quên khuấy ngay chuyên lúc nãy, bắt qua chuyện hai bao hàng:
- Ta đem hắn ra Hà Nội bán à, mẹ?
- ừ.
- Lời nhiều không, mẹ?
- ừ. Mẹ cũng không biết. Nhưng thế nào cũng có quần áo mới cho con mặc Tết.
- A... Cô bé reo lên mừng rỡ.
- Cả mẹ cũng có, cả bà cũng có nữa chứ, mẹ?
- ừ, nhưng mẹ không thích mặc quần áo mới, ngứa lắm.
- Hứ! - Miu chu mỏ, ý nói: Chán mẹ quá. Lại không thích mặc quần áo mới! - à, mẹ này.
- Chi con?
- Bán xong, có tiền lời mẹ nhớ mua cau tươi với rễ tươi cho bà nữa, mẹ nhá.
- ừ, mẹ nhớ.
- Mẹ cứ nói mẹ nhớ. Răng phiên chợ trước mẹ không mua cau tươi cho bà, lau nay con thấy bà toàn phải ăn cau khô với rễ khô, trầu úa vàng hoe. Bữa trước nhờ con đâm trầu, bà chép miệng nói ri nì "Ước chi có miếng cau tươi mà ăn một miếng trầu cho ra hồn, có chết ngay cũng sướng. Ăn cái thứ cau khô miền Nam ni, vừa cứng vừa lạt như nhai dái trâu".
- Rứa à con - người mẹ chép miệng - Khổ thân bà. Bà lại cứ nói bà không thích ăn cau tươi, để tiền mua cá cho con.
- Rứa à mẹ ? - Cô bé thấy nhớ bà, thôi không muốn nói chuyện nữa. Cô nhìn ra chút cửa sổ còn sót lại do đống bao gạo còn chừa ra, nghĩ lại xem trời tối như thế này thì ở nhà bà đang làm gì? Chắc bà đang gắp những cục than trộng trộng trong đống gộc vừa đốt sưởi cho vào trã đất, đút xuống gầm giường ngủ cho ấm. Chà, giờ mà được chui vô nách bà trên giường ấm sực hơi lửa ở nhà mà nghe bà kể chuyện ma nhát ông Nhương thì sướng.
Ngồi ê đít trên bao đỗ xanh, cô bé cựa quậy, lại sực nhớ đến chuyện hai bao đỗ.
- Mẹ. Cái nhà mà bữa trước ta lên mua lạc đỗ, bác chủ nhà bị làm răng mà bụng bác to như cái trống rứa, mẹ?
- ừ, bác nớ bị bệnh cổ trướng con ạ. Chắc rồi không sống qua được Tết ni, khổ thân bác.
Miu thở dài sống sượt, buồn:
- Còn bác trai thì bị gãy mất một cái răng mẹ ạ, khi bác cười con thấy.
- Không phải gẫy mô con. Chỗ đó trước là cái răng bọc vàng, hết tiền thuốc thang cho bác gái, bác nớ phải tự đập gãy răng mình, bán lấy tiền chạy chữa cho vợ. Khổ, biết là không sống được mà vẫn cứ cố.
Cô bé không nói chuyện nữa, đưa mắt sục sạo khắp mọi ngóc ngách toa tàu. Trên trần nhà có mấy ngọn điện tỏa xuống một thứ ánh sáng trông xấu xí, sáng tối, méo mó thế nào. Nói là toa "dành cho phụ nữ và trẻ em" nhưng phần lớn hành khách trong toa là thương binh và người đi buôn. Các chú thương binh mắc võng trên gác hành lý, nằm ngủ lắc lư kín dọc toa tàu. Ghế hành khách thì chất đầy các bao gạo, đỗ. Khách nằm, ngồi vạ vật trên những bao hàng ấy. Dọc toa treo lủng lẳng những buồng cau không xanh như cau bà ngoại mà quả tròn, to, đổ ứng, mãi sau này cô mới biết đó là một giống cau của miền Nam, gọi là cau lửa. Có một nhóm bốn chú bộ đội ngồi ở góc toa, các chú ngồi gục đầu, hai bàn tay ôm choàng lấy ba lô ngủ gà ngủ gật. Một chú có con búp bê to bằng em bé ngoài nửa thân trên khắp nắp ba lô, mở mắt tròn xoe, dang hai tay như đòi bế. Đây là điểm cô bé dừng mắt nhìn lâu nhất và thứ hai là những buồng cau lắc lư (cô nghĩ tới bà ngoại). Hai điểm này cô còn nhìn lại nhiều lần. Có vẻ như mẹ đã ngủ. Giật mình dậy thấy cô mở mắt nhìn thỏ lỏ trong đêm, mẹ giục: "Con nằm duỗi chân ra đây, gối đầu lên, lòng mẹ thế này này, thế, nhắm mắt lại ngủ đi. Còn đi tàu tha hồ lâu cho con nhìn".
- Lâu là mấy ngày, mẹ?
- Cũng chưa biết chừng. Nghe mấy chú bộ đội đi từ Sài Gòn ra đây mất cả tuần rồi.
***
Đó là chuyến tàu chợ của những năm đầu thập kỷ 80. Thời kỳ hậu chiến, miền Bắc thiếu gạo trầm trọng. Nhu yếu phẩm cũng thiếu. Ở miền Nam dồi dào hơn nhưng Nhà nước cấm tư nhân buôn bán gạo, thịt - nói chung là hàng hóa - từ vùng này qua vùng khác. Mà người ta vẫn cứ buôn - và nếu thuế vụ bắt được thì tịch thu hẳn, mất trắng. Mỗi người đi tàu chỉ được mang theo 20 kg hành lý - cho nên mẹ của Miu một chuyến đi buôn Quỳnh Lưu - Hà Nội chỉ dám buôn 40kg - san ra làm 2 bao, nói dối với nhân viên nhà ga "mỗi đùm có 10 cân thôi". Vì được mẹ dặn trước nên Miu không cãi "Ứ, hai chục cân chứ, mẹ!".
Đây có lẽ là chuyến tàu cuối cùng về đến Hà Nội rồi quay về ga xuất phát còn kịp Tết. Những chuyến sau, chắc hành khách phải ăn Tết trên tàu hoặc ở các ga đợi tàu. Có một lần hai mẹ con Miu ra ăn Tết với bố ở Hải Phòng, nơi bố đóng quân - nhưng cuối cùng lại được đón xuân ở ga Thanh Hóa. Nhân tiện mẹ có mua một cặp chiếu Nga Sơn ra làm quà cho thủ trưởng của bố. Năm nay bố viết thư về báo tin "29 Tết sẽ về đến nhà (nếu tàu xe suôn sẻ). Cho nên mẹ mới lôi Miu đi buôn đỗ, bảo "để lấy tiền về ăn Tết thật to cho bố sợ".
Đâu như gần sáng. Con tàu tự dưng giảm tốc độ rồi chạy chậm hẳn. Mẹ Miu lại tưởng đến một ga nào đó 0 nhưng dân đi buôn chuyên nghiệp thì biết, lại đến một địa điểm ăn hàng mà người lái tàu đã ăn cánh với dân buôn.
Những tiếng la hét, chửi thề cùng những bao gạo bịch bịch ném qua cửa sổ quăng lên tàu cũng không làm thức nổi giấc ngủ say như chết của Miu. Cho đến khi mẹ cô nắm lấy tay giật lấy giật để:
- Dậy, dậy con, mau không hàng đè chết.
Choàng mắt dậy, cô đã thấy những người đàn ông trần trùng trục tràn lên toa, bám ô cửa sổ, cửa ra vào lôi ào ào những cái bao căng cứng loại 50kg đựng phân urê lên tàu. Dọc hai bên đường tàu người đứng lố nhố bên những bao hàng, người đứng dưới vứt ào ào lên cho người đứng đón. Họ tuồn đại vào toa, lăn mặc kệ. Đã mấy lần hai mẹ con hét lên khi những chiếc bao căng cứng kia lăn ào về phía mẹ con cô đứng. Các chú thương binh đã dậy, cầm nạng khua bạt mạng tất cả những ai xâm phạm vào khu vực hàng hóa và mắc võng của các chú. Một tí nữa thì mẹ Miu cũng lãnh được một nạng khi mẹ kéo cô nép vào đấy, lỡ đội đầu trúng vào võng chú.
Những bao hàng vẫn theo dọc đường tàu mà ném lên rào rào, đây đó trong toa có tiếng trẻ con khóc thét lên, tiếng người lớn gào gọi nhân viên tàu lửa, yêu cầu đóng các cửa sổ và cửa đi lại không cho hàng lên nữa. Miu vẫn khóc thút thít, mẹ xót xa, xoa xoa, thổi thổi bàn chân bé nhỏ sưng vù, tụ máu ở đầu ngón chân cái vì một góc bao hàng đè lên. Tưởng như cả mấy chục con người bị tấn côn và luùi bước, rồi sẽ bị chôn vùi trong đống bao gạo, đỗ, vừng, mỗi lúc một đầy thêm. Những buồng cau chao đảo, trái rụng lộp độp....